Quyền tác giả
Quyền tác giả hay tác quyền (tiếng Anh: copyright) là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) thí dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Một phần người ta cũng nói đó là sở hữu trí tuệ (intellectual property) và vì thế là đặt việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ song đôi với nhau, thế nhưng khái niệm này đang được tranh cãi gay gắt. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất.
Quyền tác giả được quy định khác nhau trong các nước trên thế giới.Mục lục [ẩn]
1 Lịch sử phát triển của quyền tác giả
2 Phát triển hiện tại của quyền tác giả
3 Copyright
4 Quyền tác giả trong Liên minh châu Âu
5 Quyền tác giả trong các nước nói tiếng Đức
6 Quyền tác giả tại Việt Nam
7 Phong trào chống đối
8 Tham khảo
9 Đọc thêm
10 Liên kết ngoài
[sửa] Lịch sử phát triển của quyền tác giả
Trong Thời kỳ Cổ đại và Thời kỳ Trung Cổ người ta chưa biết đến quyền cho một tác phẩm trí tuệ. Các quy định luật pháp chỉ có cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, đặc biệt là về sở hữu. Thí dụ như là không được phép trộm cắp một quyển sách nhưng lại được phép chép lại từ quyển sách đó. Việc nhiều nghệ sĩ và tác giả cùng làm việc trong một đề tài là một trường hợp bình thường, cũng như việc các nhạc sĩ khác lấy hay thay đổi các bài hát và tác phẩm âm nhạc. Khi không muốn bài viết bị thay đổi tác giả chỉ còn có cách gắn một lời nguyền rủa vào quyển sách của mình như Eike von Repgow, tác giả của Sachsenspiegel, một quyển sách ghi chép lại các luật lệ đương thời, đã nguyền rủa những người giả mạo tác phẩm của ông sẽ bị bệnh hủi.
Cùng với phát minh in (khoảng 1440), các bản sao chép lại của một tác phẩm bắt đầu có thể được sản xuất ở số lượng lớn một cách dễ dàng hơn. Nhưng tác giả vẫn chưa có được “quyền tác giả” ở bên cạnh và còn phải vui mừng là chẳng những tác phẩm được in mà nhà in hay nhà xuất bản còn trả cho một số tiền cho bản viết tay. Thế rồi đi đến trường hợp là bản in đầu tiên bị các nhà in khác in lại. Việc này làm cho việc kinh doanh của nhà in đầu tiên khó khăn đi vì người này đã đầu tư lao động nhiều hơn và có thể cũng đã trả tiền cho tác giả, những người in lại tự nhiên là có thể mời chào sản phẩm của họ rẻ tiền hơn. Tác giả cũng có thể không bằng lòng với các bản in lại vì những bản in lại này thường được sản xuất ít kỹ lưỡng hơn: có lỗi hay thậm chí bài viết còn bị cố ý sửa đổi.
Vì thế, để chống lại tệ in lại, các nhà in đã xin các quyền lợi đặc biệt từ phía chính quyền, cấm in lại một tác phẩm ít nhất là trong một thời gian nhất định. Lợi ích của nhà in trùng với lợi ích của nhà cầm quyền vì những người này muốn có ảnh hưởng đến những tác phẩm được phát hành trong lãnh địa của họ. Đặc biệt là nước Pháp do có chế độ chuyên chế sớm nên đã thực hiện được điều này, ít thành công hơn là ở Đức. Tại Đức một số hầu tước còn cố tình không quan tâm đến việc các nhà xuất bản vi phạm các đặc quyền từ hoàng đế nhằm để giúp đỡ các nhà xuất bản này về kinh tế và để mang vào lãnh thổ văn học đang được ưa chuộng một cách rẻ tiền. Những ý tưởng của Phong trào Khai sáng phần lớn là đã được truyền bá bằng các bản in lậu.
Khi Thời kỳ Phục hưng bắt đầu, cá nhân con người trở nên quan trọng hơn và đặc quyền tác giả cũng được ban phát để thưởng cho những người sáng tạo ra tác phẩm của họ. Tại nước Đức thí dụ như là Albrecht Dürer (1511) đã được công nhận một đặc quyền như vậy. Nhưng việc bảo vệ này chỉ dành cho người sáng tạo như là một cá nhân (quyền cá nhân) và chưa mang lại cho tác giả một thu nhập nào. Giữa thế kỷ 16 các đặc quyền lãnh thổ được đưa ra, cấm in lại trong một vùng nhất định trong một thời gian nhất định.
Khi các nhà xuất bản bắt đầu trả tiền nhuận bút cho tác giả thì họ tin rằng cùng với việc này họ có được một độc quyền kinh doanh (thuyết về sở hữu của nhà xuất bản), ngay cả khi họ không có đặc quyền cho tác phẩm này. Vì thế mà việc in lại bị cấm khi các quyền từ tác giả được mua lại.
Mãi đến thế kỷ 18, lần đầu tiên mới có các lý thuyết về các quyền giống như sở hữu cho các lao động trí óc (và hiện tượng của sở hữu phi vật chất). Trong một bộ luật của nước Anh năm 1710, Statue of Anne, lần đầu tiên một độc quyền sao chép của tác giả được công nhận. Tác giả sau đó nhượng quyền này lại cho nhà xuất bản. Sau một thời gian được thỏa thuận trước tất cả các quyền lại thuộc về tác giả. Tác phẩm phải được ghi vào trong danh mục của nghiệp hội các nhà xuất bản và phải có thêm ghi chú copyright để được bảo vệ. Phương pháp này được đưa vào ứng dụng tại Mỹ vào năm 1795 (yêu cầu phải ghi vào danh mục được bãi bỏ tại Anh vào năm 1956 và tại Hoa Kỳ vào năm 1978). Ý tưởng về sở hữu trí tuệ phần lớn được giải thích bằng thuyết về quyền tự nhiên (tiếng Anh: natural law). Tại Pháp một Propriété littéraire et artistique (Sở hữu văn học và nghệ thuật) được đưa ra trong hai bộ luật vào năm 1791 và 1793. Tại nước Phổ một bảo vệ tương tự cũng được đưa ra vào năm 1837. Cũng vào năm 1837 Hội đồng liên bang của Liên minh Đức quyết định thời hạn bảo vệ từ khi tác phẩm ra đời là 10 năm, thời hạn này được kéo dài thành 30 năm sau khi tác giả qua đời (post mortem auctoris) vào năm 1845. Trong Liên minh Bắc Đức việc bảo vệ quyền tác giả được đưa ra vào năm 1857 và được Đế chế Đức thu nhập và tiếp tục mở rộng sau đó. Trong Đệ tam Đế chế các tác giả chỉ là “người được ủy thác trong nom tác phẩm” cho cộng đồng nhân dân.
[sửa]
Phát triển hiện tại của quyền tác giả
Những lý lẽ được đưa ra trong các cuộc thảo luận về việc quyền tác giả phải phản ứng như thế nào trước các phát triển kỹ thuật hiện tại đều tương tự như nhau trên toàn thế giới. Một vài quốc gia chỉ còn có một phạm vi tự do hạn hẹp trong việc định hình cho quyền tác giả vì những quy định khác thường có thể được coi là lợi thế không công bằng, không được các đối tác thương mại thế giới chấp nhận mà không có phản ứng chống lại. Trong tương quan về thế mạnh hiện tại Mỹ là quốc gia có phạm vi tự do rộng lớn nhất và với Digital Millennium Copyright Act (DMCA) là quốc gia đã định sẵn chiều hướng chung của quyền tác giả, đi đến việc bảo vệ quyền tác giả một cách nghiêm ngặt hơn. Định luật tương tự ở châu Âu là European Union Copyright Directive (EUCD- Chỉ thị Copyright Liên minh châu Âu).
Tại châu Âu các chỉ thị của Liên minh châu Âu chỉ có tính chất tạo khuôn khổ và phải được bổ sung bằng các luật lệ của từng quốc gia. Bắt đầu từ ngày 13 tháng 9 năm 2003 một quyền tác giả được sửa đổi có hiệu lực tại Đức mà trong đó, ngoài những điều lệ khác, việc vô hiệu hóa các phương pháp bảo vệ chống sao chép cho các mục đích thương mại cũng như cá nhân đều sẽ bị phạt. Điều 95 a của Luật quyền tác giả quy định về việc “bảo vệ các biện pháp kỹ thuật”. Theo điều 95 khoản 1 của Luật quyền tác giả, các biện pháp kỹ thuật không được phép vô hiệu hóa khi chưa có sự đồng ý của người đang sở hữu quyền này. Các biện pháp bảo vệ chống sao chép ở các đĩa compact (CD) ghi âm thanh hay DVD không còn được phép vô hiệu hóa vì mục đích sao chép cho cá nhân nữa. Tại Áo việc thực hiện EUCD đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2003. Trong thời gian gần đây IP-Enforcement Directive của Liên minh châu Âu là bước kế tiếp trong hướng đi đến thắt chặt hơn nữa các luật lệ về quyền tác giả.
Việc hoàn toàn hủy bỏ quyền được phép có bản sao dùng cho mục đích cá nhân đang được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) yêu cầu và sau đó là việc truy tìm cứng rắn hơn các vi phạm về quyền tác giả. Ngoài những nguyên nhân khác đây cũng là một phản ứng chống lại việc sử dụng ngày càng phổ biến các nơi trao đổi trong internet và các công nghệ khác của “thời đại số”. Ngày nay chương trình phát thanh hay truyền hình có thể nghe hay xem được qua Internet, sách điện tử (e-book) được coi như là một cạnh tranh của sách in. Những thay đổi này là lý lẽ của những người kinh doanh trong giới truyền thông nhằm để thông qua luật lệ mà trở về lại thời kỳ trước khi các máy quay video, máy thâu băng và máy thu thanh được phổ biến rộng rãi: Vào năm 1900, khi muốn nghe nhạc (không phải là live) thì tất cả mọi người đều phải mua một đĩa hát.
Mỗi một phát minh mới, thí dụ như máy thu thanh, đều được coi như là sẽ làm suy tàn công nghiệp âm nhạc, nhưng thật ra điều trái ngược lại đã xảy ra.
[sửa]
Copyright
Bài chi tiết: Copyright
Copyright (bản quyền) là thuật ngữ được các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Án lệ) dùng chỉ cho quyền phi vật thể đối với các tác phẩm trí tuệ. Quyền này tương tự như quyền tác giả (Author’s Right) ở Việt Nam nói riêng và các quốc gia theo hệ thống luật Continental như Đức hoặc một số quốc gia Châu Âu khác nhưng khác nhau ở nhiều điểm cơ bản.
Chủ thể được bảo hộ là tương đối khác nhau. Trong khi quyền tác giả đặt tác giả như là người sáng tạo và các quan hệ tinh thần của tác giả đối với tác phẩm làm trung tâm thì Copyright lại bảo vệ quyền lợi kinh tế của người sở hữu quyền tác giả (owner of the Copyright) hơn là chính tác giả. Copyright trước nhất là dùng để bảo vệ các đầu tư về kinh tế. Chính từ nền tảng này mà luật của các vùng nói tiếng Anh và luật của châu Âu lục địa đã đi đến kết quả khác nhau cho nhiều vấn đề về luật pháp.
Trong Copyright của hệ thống luật Anh-Mỹ, trái ngược với luật về quyền tác giả của hệ thống luật Châu Âu lục địa, các quyền sử dụng và quyền định đoạt về một tác phẩm thường không dành cho tác giả (thí dụ cho một nghệ sĩ) mà lại dành cho những người khai thác các quyền này về mặt kinh tế (thí dụ như nhà xuất bản). Tác giả chỉ giữ lại các quyền phủ quyết có giới hạn nhằm để ngăn cản việc lạm dụng của Copyright từ phía những người khác thác các quyền này.
Một điểm khác biệt cơ bản nữa giữa Bản quyền và quyền tác giả là luật bản quyền bảo vệ cả những quyền nhân thân của tác giả (moral right) trong khi các quốc gia như Anh, Úc, Mỹ hầu như không hề có những quy định này cho đến thời gian gần đây. Cụ thể như pháp luật về quyền tác giả Việt Nam từ lâu đã bảo vệ những quyền nhân thân của tác giả như Quyền bảo đảm được trích dẫn khi tác được sử dụng hoặc quyền bảo dẳm tác phẩm không bị sữa đỗi, bổ sung, thay đỗi, chuyển thể dưới mọi hình thức mà không được sự đồng ý của (các) tác giả.
Cho đến những năn gần đây Copyright tại Mỹ vẫn phải đăng ký một cách rõ ràng và chấm dứt 75 năm sau khi được ghi vào trong danh mục Copyright trung tâm. Hiện nay các tác phẩm mới tại Mỹ được bảo vệ cho đến 70 năm sau khi tác giả qua đời hay 95 năm dành cho các doanh nghiệp. Việc đăng ký Copyright tại “Library of Congress” không còn là cần thiết bắt buộc nữa nhưng vẫn được khuyên nhủ.
Ghi chú Copyright – ký hiệu © hay (c) – sau đó thường là người sở hữu quyền và năm) hay cũng được gọi là thông báo quyền tác giả có nguồn gốc từ luật Mỹ. Lý do là theo các luật lệ cũ của Mỹ thì có thể mất các quyền về một tác phẩm nếu như không có ghi chú Copyright. Sau khi Mỹ gia nhập Công ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật vào năm 1989 thì ghi chú Copyright không cần thiết nữa nhưng vẫn có thể được đính kèm tùy theo ý muốn. Trong hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì ngược lại, quyền tác giả phát sinh tại thời điểm tác giả tạo ra tác phẩm.
Quyền tác giả tại Việt Nam
Quyền tác giả tại Việt Nam đã được quy định chi tiết trong Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị Định 100/NĐ-CP/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan. Theo đó, Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền sau đây: 1. Quyền Nhân thân – Đặt tên cho tác phẩm – Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; – Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; – Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. 2. Quyền tài sản – Làm tác phẩm phái sinh; – Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; – Sao chép tác phẩm; – Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; – Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; – Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Tác phẩm được bảo hộ theo cơ chế quyền tác giả là các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật.
Do nhu cầu chuyển giao và được chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ ngày càng tăng lên, các giao dịch khai thác quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả tại Việt Nam cũng trở lên đa dạng.
Việc tiến hành khai thác, sử dụng quyền tác giả một cách có hiệu quả thông qua các tổ chức quản lý tập thể đang được xã hội và cộng đồng doanh nghiệp hết sức quan tâm. Tuy nhiên, về tổ chức quản lý tập thể và việc hình thành hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan là vấn đề còn mới mẻ và phức tạp đối với Việt Nam cần được tiếp tục nghiên cứu và điều chỉnh theo quy định của pháp luật.
1. Thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ và viêc khai thác, chuyển giao quyền tác giả
Quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. Theo nhà kinh tế học Paul Romer coi sự tích lũy về tri thức chính là lực lượng điều khiển đứng đằng sau tăng trưởng kinh tế, muốn thúc đẩy tăng trưởng, chính sách kinh tế phải khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và triển khai những nhân tố mới. Hệ thống thể chế và pháp luật của mỗi quốc gia phải khuyến khích và tạo động lực cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các quyền sở hữu trí tuệ trên thực tiễn, trong hoạt động kinh doanh. Tài sản trí tuệ là một phương tiện đầu tư, kinh doanh quan trọng trong nền kinh tế thị trường và là công cụ để phát triển doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, không chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài mà ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã và đang nhận ra giá trị hiện thực của loại tài sản trí tuệ và mong muốn sử dụng những lợi thế của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để phát triển kinh tế – xã hội [1].
Hoạt động chuyển giao quyền tác là một thỏa thuận hợp tác giữa chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan và bên được chuyển giao, đổi lại bằng một khoản tiền theo thỏa thuận (phí chuyển giao tác quyền). Thỏa thuận chuyển giao quyền Sở hữu trí tuệ thường thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, thông qua hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu các đối tượng sở hữu và chuyển quyền sử dụng các quyền tác giả, quyền liên quan.
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định hai hình thức chuyển giao quyền tác giả (1) chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan và (2) chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan. Các quyền của chủ sở hữu các tác phẩm có thể được chuyển giao là quyền tài sản và quyền công bố hoặc cho phép công bố tác phẩm. Việc chuyển giao các quyền này có thể thông qua (1) quy định trực tiếp của pháp luật và (2) một giao dịch dân sự. Trường hợp các quyền của chủ sở hữu quyền tác giả có được theo quy định trực tiếp của pháp luật là thừa kế theo pháp luật, kế thừa quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân, chuyển giao quyền tài sản đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu (Điều 21 Luật Sở hữu trí tuệ 2005). Giao dịch để chuyển quyền của tác giả cho chủ sở hữu quyền tác giả thể hiện dưới hình thức phổ biến trên thực tế là Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan và hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan .
2. So sánh lợi ích khi chuyển giao quyền tác giả qua các tổ chức quản lý tập thể với việc tự khai thác quyền tác giả của cá nhân tác giả
Đối với các tác giả, mỗi cá nhân tác giả phải tự quản lý lấy các quyền của mình; khai thác nó để đạt được các lợi ích kinh tế, bù đắp các tiêu hao trong quá trình sáng tạo, đồng thời tiếp tục đầu tư cho hoạt động sáng tạo ra các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học mới phục vụ nhu cầu đa dạng, phong phú của xã hội. Việc các tác giả tự quản lý quyền của mình – quản lý cá nhân – trong nhiều trường hợp là không hiệu quả bằng quản lý tập thể [2]. Các tổ chức quản lý tập thể có vai trò là cầu nối giữa người sử dụng và chủ sở hữu để kết hợp trong việc khai thác các tác phẩm. Sẽ là không khả thi nếu tự thân một cá nhân quản lý các quyền của mình đối với một số loại hình tác phẩm sử dụng thường xuyên cho các mục đích thiết thực trong cuộc sống. Một tác giả không thể có khả năng giám sát tất cả các loại hình sử dụng tác phẩm của mình trong đời sống hàng ngày. Tác giả cũng không thể tự mình liên lạc đến từng đài phát thanh hay truyền hình để thương lượng thù lao và ngược lại, một tổ chức phát sóng sẽ kém hiệu quả nếu tự mình tìm kiếm sự cho phép của tất cả các tác giả cho việc sử dụng có bản quyền. Trung bình hàng năm có 60,000 tác phẩm âm nhạc được trình chiếu trên truyền hình, và vì vậy phải có hàng ngàn tác giả âm nhạc được tìm kiếm để đạt được thỏa thuận sử dụng tác phẩm của họ [3].
Một hệ thống quản lý tập thể có những ưu điểm như trong hệ thống đó, chủ thể quyền cho phép các tổ chức quản lý tập thể quản lý quyền của họ, đàm phán với người sử dụng, cấp li-xăng cho người sử dụng để đổi lấy những khoản phí thích hợp, thu các khoản phí đó và cung cấp cho các chủ thể quyền. Thực tế cần phải có một hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả để cung cấp sự bảo hộ cần thiết cho người nắm giữ quyền.
3. Thực trạng khai thác, chuyển giao quyền tác giả thông qua các tổ chức quản lý tập thể tại Việt Nam
3.1 Thực trạng hoạt động khai thác, chuyển giao quyền tác giả thông qua các tổ chức quản lý tập thể
Nhu cầu về việc tổ chức ra đời để hoạt động quản lý tập thể đã trở nên bức thiết, đặc biệt đối với lĩnh vực âm nhạc. Việt Nam đã có các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan để giải quyết các bất cập về việc tự quản lý quyền cá nhân. Hiện tại Việt Nam có ba tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan: Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam (VLCC) – quản lý tập thể quyền trong lĩnh vực văn học; Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả Âm nhạc (VCPMC); và Hiệp hội Ghi âm (RIAV) – quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan trong lĩnh vực âm nhạc. Các tổ chức quản lý tập thể này hiện đều đang khẳng định và phát huy vai trò đại diện tập thể quyền tác giả được pháp luật xác lập. Các tổ chức quản lý tập thể hiện đã hình thành một đội ngũ nhân sự chuyên trách, hướng tới hoạt động ngày càng chuyên nghiệp hơn. Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) đã có nhiều nỗ lực để đạt mục tiêu thu đạt phí tác quyền hơn 15 tỷ đồng [4] trong năm 2008. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Việt Nam (RIAV) đã nỗ lực giao kết được một số hợp đồng với doanh nghiệp có giá trị 4,5 tỷ đồng. Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam (VLCC) cũng đã ký thỏa thuận khai thác tác phẩm văn học với hơn 700 tác giả và đạt doanh thu 753 triệu đồng.
Cơ sở pháp lý cho việc ra đời tổ chức phi Chính phủ, trong đó bao gồm các tổ chức quản lý tập thể, đã được quy định tại Sắc lệnh số 102/SL-R400, ngày 20 tháng 05 năm 1957 và Nghị định số 88/2003 NĐ-CP, ngày 30 tháng 7 năm 2003, sau này là quy định tại Điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Điều 41 Nghị định 100/2006 NĐ-CP ngày 21/9/2006 của Chính phủ.
Quy định hiện hành về chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời hạn một, một số hoặc toàn bộ các quyền của mình. Thời hạn sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan sẽ phải do hai bên thoả thuận, miễn là phải có một thời gian sử dụng cụ thể và không vượt quá thời hạn tác phẩm được bảo hộ theo Điều 27 khoản 2.(a) Luật Sở hữu trí tuệ “Thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên”.
Chủ sở hữu/tác giả các tác phẩm âm nhạc thực hiện và quản lý các quyền của họ theo cách riêng của mỗi chủ thể. Các tác giả có thể thỏa thuận trực tiếp với từng bên sử dụng tác phẩm hay thông qua hình thức ủy quyền cho các tổ chức quản lý tập thể quản lý và khai thác quyền của mình.
Phương thức thứ nhất: các tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm âm nhạc (ví dụ Đài Truyền hình Việt Nam – VTV) đã thỏa thuận trả phí trực tiếp với các tác giả khi sử dụng tác phẩm của họ. Cơ sở pháp lý của việc chi trả phí tác quyền của tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm âm nhạc là các điều 26 và 33 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, theo đó: “Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan”.
Phương thức thứ hai: các tác giả có thể giao kết Hợp đồng ủy quyền quản lý và khai thác quyền tác giả âm nhạc với một tổ chức quản lý tập thể, chẳng hạn như VCPMC, để được hưởng thù lao cho các tác phẩm của mình.
3.2 Một số vấn đề phát sinh từ thực trạng khai thác sử dụng quyền tác giả của các tổ chức quản lý tập thể hiện nay tại Việt Nam
Từ năm 2004, VTV đã chi trả cho việc sử dụng tác phẩm âm nhạc thông qua Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc VN (VCPMC) một khoản tiền cho cả năm, không theo dao động của số lượng bài hát đã phát trong từng năm. Với các ca khúc được phát trong các chương trình ca nhạc có tài trợ, mức trả bản quyền theo thoả thuận là 170.000 đồng/ lần. Trong 3,5 năm tính từ đầu năm 2004, VTV đã trả tổng số tiền là 1,5 tỷ đồng, bình quân 426.000.000 đồng /năm.Tuy nhiên VTV đã đề xuất [5]: bắt đầu từ năm 2008, mức trả tác quyền cho sử dụng bài hát trong chương trình không có tài trợ là 100.000 đồng/ lần/ bài đối với các bài hát phát trên sóng các kênh VTV1, VTV2,VTV3; 30.000 đ/ lần/ bài với các ca khúc phát trên sóng của các Đài TH khu vực của VTV và 300.000 đồng với lần sử dụng ca khúc trong chương trình có tài trợ. Về cách thức chi trả, “VTV có đủ khả năng để trả trực tiếp, nhanh gọn”[6] cho các tác giả mà không thông qua VCPMC.
Nội dung các nhạc sỹ ủy quyền cho VCPMC thể hiện trong mẫu hợp đồng ký với Trung tâm như sau:
Bên A uỷ quyền cho Bên B quản lý và khai thác các quyền tác giả đối với các tác phẩm âm nhạc mà Bên A đang sở hữu, đồng thời sở hữu hợp pháp hoặc sẽ sở hữu trong tương lai gồm: Các bản nhạc có lời và không lời, sách và công trình lý luận âm nhạc. Bao gồm các quyền sau:
a) Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
b) Quyền làm tác phẩm phái sinh.
c) Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng.
d) Quyền sao chép tác phẩm.
e) Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
f) Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chung bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
g) Những quyền khác mà luật pháp cho phép
Cũng tại Điều 3 (5) của Hợp đồng mẫu với VCPMC, các tác giả (bên A) cam kết “Trong suốt thời hạn của Hợp đồng này, Bên A không ký hợp đồng chuyển giao, chuyển nhượng hay cho phép công bố, phổ biến, sử dụng các tác phẩm uỷ quyền, hoặc trực tiếp nhận tiền sử dụng tác phẩm cho/từ bất kỳ một bên nào khác”.
Xuất phát từ bản chất của một thỏa thuận dân sự, có thể đánh giá là nếu một tác giả đã ủy quyền cho VCPMC quản lý và khai thác các quyền tác giả đối với các tác phẩm âm nhạc mà họ sở hữu, sau đó lại trực tiếp nhận phí tác quyền từ các chủ thể khai thác tác phẩm (ví dụ VTV..) có thể coi là đã đơn phương vi phạm thỏa thuận với VCPMC, bởi giao dịch ủy thác này cũng là một hợp đồng dân sự và phải được tôn trọng theo quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng ủy thác.
Theo đại diện Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc VN [7], năm 2008, VCPMC nỗ lực thu hút số nhạc sĩ ủy quyền cho Trung tâm lên trên 1.500 người. Đến tháng 3/2007, Trung tâm đã giành quyền đại diện cho 1.069 tác giả. Năm 2007, VCPMC thu được hơn 9 tỷ đồng tiền tác quyền. Từ đầu 2008 đến 3/2008, VCPMC đã thu được hơn 2,3 tỷ. Để hoàn thành chỉ tiêu 12 tỷ đồng, Trung tâm đã mở rộng mạng lưới chi nhánh tác quyền ở nhiều tỉnh thành. Đến năm 2008, VCPMC có hơn 40 cộng tác viên tại các địa phương trên cả nước. Song song với việc vươn dài phạm vi hoạt động, Trung tâm còn triển khai thêm việc thu phí ở 5 lĩnh vực mới (ngoài 12 lĩnh vực đã được thực hiện) như cửa hàng giày dép, quần áo, mỹ phẩm; câu lạc bộ, trung tâm thẩm mỹ…Doanh thu đạt hơn 15 tỉ đồng mà VCMPC thu được trong năm 2008 là con số đáng khích lệ.
Tính đến nay, Việt Nam có khoảng hơn 80 website âm nhạc, trong đó, mới chỉ có 10 đơn vị ký hợp đồng với VCPMC. Để sử dụng mỗi nhạc phẩm một cách hợp pháp, các website cần có chứng nhận bản quyền của cả Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc VN và Hiệp hội Công nghiệp ghi âm. Biểu giá VCPMC đưa ra là 16.000 đồng cho một tác phẩm trong một tháng và 300 đồng cho mỗi lượt sử dụng. Trong khi, RIAV tính tròn 1 triệu đồng mỗi bài mỗi năm. Nếu thực hiện theo mức giá đó, mỗi năm, một website có thể sẽ phải chi hàng tỷ đồng để thanh toán tiền bản quyền. Có ý kiến cho rằng con số mà RIAV đế xuất là quá cao so với mức giá của VCPMC đối với các site âm nhạc. Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề thu và trả phí sử dụng tác phẩm theo các quy định của pháp luật, cần khẳng định rằng, các giao dịch tác quyền là hoạt động mang tính chất dân sự, dựa trên nguyên tắc thuận mua vừa bán. Chủ sở hữu có quyền định giá còn người sử dụng có quyền trả giá [8] tùy thuộc vào khả năng thương lượng của các bên. Do vậy, bất cứ chủ thể nào có hành vi ép giá hoặc đơn phương áp đặt mức phí mà thiếu sự thoả thuận của bên có quyền đếu có thể dẫn đến tranh chấp giữa các bên chủ thể.
Một số bất cập từ việc khai thác các tác phẩm trên môi trường kỹ thuật số
Gần đây, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV) đã công bố việc khiếu nại Nokia và IPTV xâm phạm bản quyền của các thành viên thuộc RIAV. Nokia được phát hiện đã sử dụng một số lượng lớn các bản ghi âm của các thành viên RIAV, để phân phối đến người tiêu dùng mà không được phép của các thành viên này cũng như của RIAV. Sự việc này được phát hiện khi Nokia có chương trình khuyến mãi: Mua một điện thoại Nokia 5320, khách hàng được cấp một thẻ truy cập vào trang web: http://mp3.nhacso.net/nokia (là trang web bán nhạc thuộc sở hữu của Công ty cổ phần Dịch vụ trực tuyến FPT) để tải 1.000 bài hát trong kho 10.446 bài hát. RIAV đã thông báo về việc vi phạm bản quyền này, Nokia cho rằng họ đã mua bản quyền của 10.446 bài hát này từ Nhạc Số, tuy nhiên Nokia không xuất trình được hợp đồng ký với NhacSo. Công ty FPT Online, sau khi rà soát trang http://mp3.nhacso.net/nokia, phát hiện những sai sót về vấn đề bản quyền âm nhạc, do sơ suất trong quá trình triển khai. FPT online đã cho thu hồi các thông tin không phù hợp trên trang web trên [9].
Tháng 7/2009, Công ty cổ phần Dịch vụ trực tuyến FPT Online đã đạt được thỏa thuận với RIAV để được cấp chứng nhận là nhà phân phối chính thức các bản ghi của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam. Sự kiện này cho thấy doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên các website âm nhạc đã tuân thủ pháp luật và tôn trọng quyền của các tác giả thông qua tổ chức quản lý tập thể như RIAV.
3.3 Một số đề xuất về chính sách quản lý và khai thác quyền tác giả theo mô hình quản lý tập thể.
Có thể kết luận sơ bộ rằng, chỉ những loại hình tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng mà việc tự quản lý quyền cá nhân tỏ ra không hiệu quả, và nhu cầu được sử dụng nhanh, thuận lợi từ phía các tổ chức, cá nhân mới có đòi hỏi bức thiết về tham gia uỷ thác việc quyền. Tại Việt Nam, các sản phẩm đa phương tiện, bao gồm sản phẩm có hoặc do nhiều tác phẩm tạo thành đã được sáng tạo ngày một nhiều, tạo cơ hội cho hoạt động sáng tạo, lưu giữ, phân phối sản phẩm tới công chúng, để họ tự lựa chọn bất kỳ thời gian và địa điểm tiếp cận là lý do cần đến vai trò của một tổ chức quản lý tập thể. Thực tế cũng đòi hỏi các cơ quan chức năng như Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tạo điều kiện hơn nữa và tiêp tục hỗ trợ cho việc ra đời và hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, đồng thời giám sát có hiệu quả hoạt động của các tổ chức này theo quy định pháp luật.
Các cơ quan chức năng, một mặt khuyến khích thành lập các tổ chức quản lý tập thể nhằm tăng cường cải thiện quyền lợi tinh thần và lợi ích vật chất của tác giả, mặt khác cần có sự rà soát, hậu kiểm, hỗ trợ tích cực của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành để đảm bảo:
(i) Tổ chức quản lý tập thể phải được kiện toàn bộ máy có hiệu quả để thu và phân phối tiền thù lao quyền tác giả và chịu hoàn toàn trách nhiệm về các hoạt động gắn với việc quản lý quyền mà tổ chức đó được ủy thác.
(ii) Tổ chức quản lý tập thể không quản lý thêm các quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng hoặc của những người có quyền khác, trừ khi đó là chức năng được pháp luật quy định.
(iii) Có giải pháp chủ động, kịp thời khi xung đột lợi ích xảy ra giữa tổ chức quản lý tập thể và các cơ quan thuộc Chính phủ như cơ quan phát thanh, truyền hình quốc gia..để khuyến khích và thúc đẩy hoạt động sáng tạo trong nước.
(iv) Cần ban hành cơ chế khuyến khích, thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa tổ chức quản lý tập thể với các cơ quan bảo hộ sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước để xã hội có những “gian hàng thuận tiện” cho họat động chuyển giao, tiếp nhận các li-xăng cần thiết giữa các chủ thể quyền và các đối tượng sử dụng tác phẩm đang ngày càng trở nên đa dạng, phong phú nhu hiện nay.
Tổng hợp Internet